Quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra được quy định tại Điều 57 và Điều 58 Luật Thanh tra năm 2010. Trên cơ sở đó, Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra đã hướng dẫn cụ thể tại Điều 53: “Trách nhiệm của đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra” và Điều 55: “Trách nhệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra”.
Quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra được quy định tại Điều 57 và Điều 58 Luật Thanh tra năm 2010. Trên cơ sở đó, Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra đã hướng dẫn cụ thể tại Điều 53: “Trách nhiệm của đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra” và Điều 55: “Trách nhệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra”.
Qua nghiên cứu cho thấy, trong hoạt động thanh tra, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của cuộc thanh tra. Tùy theo các loại hình thanh tra khác nhau mà việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra có khác nhau. Nhìn chung, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra trong những năm gần đây (năm 2006 - năm 2013) có những vấn đề sau đây:
a) Về việc thực hiện quyền của đối tượng thanh tra
Thứ nhất, về quyền khiếu nại đối với kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra. Đây là quyền hạn rất quan trọng, là công cụ hữu hiệu để đối tượng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp kết luận, quyết định xử lý về thanh tra không khách quan, thiếu chính xác, có vi phạm pháp luật. Đó cũng là yêu cầu, đòi hỏi nhằm đề cao trách nhiệm, ràng buộc nghĩa vụ của những người tiến hành thanh tra, cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khắc phục tình trạng lộng quyền, lạm quyền từ phía những người nhân danh quyền lực nhà nước. Chế định này rất tích cực, tiến bộ, giải quyết mối quan hệ qua lại hết sức chặt chẽ giữa một bên là đối tượng thanh tra và một bên là chủ thể tiến hành thanh tra. Trên thực tế thì rất ít khi phát sinh khiếu nại đối với kết luận thanh tra, thông thường đối tượng thanh tra sử dụng biện pháp giải trình đối với những vấn đề chưa nhất trí với Đoàn thanh tra, cơ quan tiến hành thanh tra trong khi đưa ra dự thảo kết luận thanh tra hoặc dự thảo báo cáo kết quả thanh tra. Qua theo dõi cho thấy số khiếu nại đối với kết luận thanh tra hành chính diễn ra ít hơn so với khiếu nại kết luận thanh tra chuyên ngành. Tình trạng này là do những nguyên nhân sau:
- Nội dung kết luận trong thanh tra hành chính thường liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, có nội dung và phạm vi rộng, nhiều khi liên quan đến trách nhiệm của tập thể, nhiều cơ quan, tổ chức, trong chừng mực nào đó còn liên quan đến sự chỉ đạo, điều hành của cơ quan quản lý cấp trên. Còn nội dung kết luận thanh tra chuyên ngành thường là vấn đề chuyên môn, nghiệp vụ, nội dung rõ ràng, cụ thể.
- Đối tượng trong thanh tra hành chính thường là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong khu vực nhà nước. Còn đối tượng trong thanh tra chuyên ngành không hoàn toàn như vậy, thường rộng và đa dạng hơn, ngoài đối tượng như kể trên, cho thấy đối tượng là tổ chức, cá nhân nằm ngoài khu vực nhà nước chiếm tỷ lệ đáng kể hoặc trong mối quan hệ với chủ thể tiến hành thanh tra không phải là quan hệ thứ bậc hành chính, trong chấp hành, điều hành của hệ thống.
Bên cạnh đó, đối với quyết định xử lý về thanh tra nếu gắn với kết luận thanh tra hoặc được ban hành trên cơ sở kết luận thanh tra, trong nội dung kết luận thanh tra thì thường ít khi đối tượng khiếu nại, nhất là đối với các cuộc thanh tra hành chính. Còn quyết định xử lý gắn với việc thực hiện kết luận thanh tra của cuộc thanh tra chuyên ngành thì khiếu nại nhiều hơn. Trong trường hợp này được coi là khiếu nại đối với quyết định xử lý, quyết định xử phạt của cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Đó thực chất là một dạng khiếu nại đối với quyết định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước và việc giải quyết không có vướng mắc gì về lý luận và thực tiễn. Thứ hai, về quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại, đây là quyền mới rất tiến bộ, tích cực, mạnh mẽ để giúp đối tượng thanh tra có công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chống lại hành vi vi phạm từ phía Nhà nước. Quy định này đã được ghi nhận trong Luật Thanh tra sau khi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được ban hành. Tuy vậy, trên thực tế, rất ít xảy ra trường hợp đối tượng thanh tra yêu cầu đòi bồi thường từ kết luận thanh tra, có chăng chỉ xuất hiện nhỏ lẻ một vài trường hợp đối tượng thanh tra đòi bồi thường đối với quyết định xử lý về thanh tra trong thanh tra chuyên ngành. Còn yêu cầu đòi bồi thường từ kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra hành chính hầu như ít thấy xuất hiện. Sở dĩ có hiện tượng này bởi vì, muốn có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại thì trước hết phải có kết luận của cơ quan có thẩm quyền về việc vi phạm pháp luật của kết luận thanh tra, đó là cơ sở cho việc xem xét, giải quyết về bồi thường thiệt hại. Chính vì việc giải quyết khiếu nại về kết luận thanh tra chưa được tiến hành nhiều, nên hệ quả đương nhiên là việc yêu cầu đòi bồi thường cũng sẽ xuất hiện rất hạn chế hoặc hầu như không có.
Thứ ba, về quyền tố cáo của đối tượng thanh tra đối với hành vi vi phạm pháp luật của Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên, người được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, công tác viên thanh tra, thành viên khác của Đoàn thanh tra. Đây là quyền rất quan trọng của đối tượng thanh tra khi phát hiện người tiến hành thanh tra có hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi vi phạm pháp luật của những người tiến hành thanh tra diễn ra rất đa dạng, ở những thời điểm nhất định hoặc trong những giai đoạn khác nhau trong quá trình tiến hành thanh tra. Có thể là trong khi thu thập, thẩm tra, xác minh, có thể trong khi kết luận, ban hành quyết định xử lý. Tuy chưa được mô tả cụ thể trong điều luật song cũng có thể được hiểu là đối tượng thanh tra có quyền tố cáo đối với việc làm trái pháp luật của người có thẩm quyền khi ban hành kết luận thanh tra không chính xác, thiếu khách quan, gây thiệt hại cho đối tượng thanh tra. Trên thực tế, việc tố cáo của đối tượng thanh tra đối với hành vi vi phạm pháp luật của người tiến hành thanh tra, ban hành kết luận thanh tra cũng diễn ra. Có trường hợp được phát hiện, bị xử lý bằng nhiều hình thức khác nhau, thậm chí còn bị xử lý nghiêm khắc bằng biện pháp hình sự. Những người liên quan trong quá trình tiến hành thanh tra bị xử lý với những mức độ khác nhau. Đó cũng là công cụ sắc bén và hữu hiệu để đối tượng thanh tra bảo vệ mình, chống lại hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình tiến hành thanh tra của những người có thẩm quyền.
b) Về việc thực hiện nghĩa vụ của đối tượng thanh tra
Trong việc thực hiện kết luận thanh tra, đối tượng thanh tra có nhiều nghĩa vụ, bởi vì đây thực chất là các quy định nhằm bảo đảm cho việc thực thi kết luận, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Pháp luật về thanh tra từ trước đến nay đều rất chú trọng trong việc thể chế hóa nội dung trách nhiệm của đối tượng thanh tra và xác định những chế tài xử lý trong trường hợp đối tượng thanh tra không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, nghiêm túc hoặc cản trở, chống đối việc thực hiện kết luận thanh tra. Quá trình nghiên cứu thấy rằng việc thực hiện quyền của đối tượng thanh tra gặp những vấn đề sau:
- Việc thực hiện yêu cầu, quyết định xử lý về kinh tế: đối tượng thanh tra bao gồm rất nhiều loại khác nhau, có cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân, thuộc khu vực nhà nước, trong hệ thống chính trị của nước ta, có đối tượng là tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc khu vực tư nhân nên việc thực hiện kết luận thanh tra còn lệ thuộc nhiều vào vị trí, địa vị, vai trò của đối tượng thanh tra. Có không ít trường hợp đối tượng thanh tra là những cơ quan, tổ chức, cá nhân không chịu thi hành hoặc thi hành không đầy đủ, nghiêm túc kết luận thanh tra nhưng không được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh. Tuy nhiên, cũng về vấn đề kinh tế thì có những việc thuộc phạm vi thực hiện của cơ quan, đơn vị, cá nhân cấp dưới hoặc cơ quan, đơn vị có liên quan mà đối tượng thanh tra phải yêu cầu hoặc kiến nghị thực hiện. Thông thường trong những trường hợp phải có yêu cầu hoặc kiến nghị thì hiệu quả không cao, vì vướng mắc vào nhiều thủ tục hành chính phức tạp, rườn rà.
- Việc xử lý về đối với người có hành vi vi phạm. Đây thực chất là việc thực hiện quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Căn cứ vào từng hành vi vi phạm, đối tượng vi phạm, tính chất và mức độ vi phạm mà việc xử lý đối với con người có sự khác nhau. Có thể là xử lý hành chính, xử lý hình sự. Trong xử lý hành chính thì có hai khả năng xảy ra có thể là xử lý kỷ luật đối với đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, bên cạnh đó cũng có thể là xử phạt hành chính nếu đối tượng vi phạm là công dân, tổ chức. Trong trường hợp phải xử phạt vi phạm hành chính, xử lý hình sự thì việc áp dụng các biện pháp xử lý thuộc quyền của cơ quan nhà nước nhà nước, đối tượng có nghĩa vụ chấp hành. Còn việc xử lý kỷ luật thì lại khác, sẽ xảy ra hai trường hợp. Một là, chính đối tượng thanh tra phải tiến hành xử lý kỷ luật với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của mình, hai là, đối tượng sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử xử lý kỷ luật (khiển trách, cảnh cáo...) trong trường hợp đối tượng là cơ quan, đơn vị, cá nhân thuộc khu vực nhà nước. Trong cả hai trường hợp phải xử lý nêu trên, thì hiện nay đều diễn ra tình trạng thiếu chủ động, tích cực trong việc xử lý, không chấp hành hoặc né tránh trong việc chấp hành yêu cầu, quyết định xử lý của cơ quan có thẩm quyền. Xảy ra không ít trường hợp né tránh, xử lý không kịp thời, thiếu nghiêm minh đối với người có hành vi vi phạm, nhất là đối với người có chức vụ, quyền hạn. Có trường hợp bao che dung túng cho người có hành vi vi phạm, vì vậy sai phạm không được kịp thời khắc phục xử lý tiếp tục tái diễn nghiêm trọng và nguy hiểm hơn.
- Về việc khắc phục sơ hở yếu kém trong công tác quản lý, đây là vấn đề hết sức quan trọng để loại bỏ nguyên nhân, cơ sở phát sinh vi phạm. Là vấn đề thuộc trách nhiệm trực tiếp của đối tượng thanh tra và cơ quan, đơn vị, cá nhân thuộc quyền quản lý của đối tượng thanh tra. Trên thực tế đây là những nội dung phải thực hiện rất phức tạp, đa dạng và không đơn giản. Có việc, nội dung được xác định rõ ràng, cụ thể và có thể tổ chức thực hiện ngay được, trái lại có vấn đề, nội dung lớn, phức tạp phải thực hiện lâu dài, liên quan đến nhiều đối tượng, quy trình thực hiện phải tiến hành qua nhiều khâu, nhiều tầng, nấc. Việc thực hiện những nội dung liên quan đến việc khắc phục sơ hở yếu kém trong công tác quản lý cơ bản, chủ yếu thuộc trách nhiệm của đối tượng thanh tra. Qua theo dõi cho thấy việc thực hiện các biện pháp để khắc phục hở yếu kém trong công tác quản lý thường diễn ra chậm, hiệu quả không cao, có những việc tiến hành rất lâu. Chính vì vậy những lỗ hổng, kẽ hở, căn nguyên phát sinh vi phạm không được kịp thời bịt lấp, xóa bỏ. Do đó lại tiếp tục làm cho sai phạm phát sinh, phát triển. Trong khi đó chế tài xử lý đối với những hành vi vi phạm, người thiếu trách nhiệm hoặc không thực hiện trách nhiệm hầu như không có hoặc nếu có thì cũng rất khó thực hiện.
- Về việc sửa đổi, bổ sung, cơ chế, chính sách, pháp luật. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, có tính vĩ mô để loại bỏ căn nguyên, gốc rễ của các sơ hở làm phát sinh vi phạm hoặc một loại vi phạm hoặc rất nhiều vi phạm đang diễn ra trên thực tế. Việc thực hiện nghĩa vụ này rất phức tạp vì phải tiến hành qua nhiều khâu, tầng nấc, nhiều thủ tục phức tạp, kéo dài trong nhiều thời gian. Nếu thực hiện đầy đủ, kịp thời việc sửa đổi, bổ sung, cơ chế, chính sách, pháp luật sai trái, không còn phù hợp với thực tế thì có tác dụng rất tích cực, hiệu quả, không chỉ ngăn chặn mà còn phòng ngừa nhiều vi phạm có thể xảy ra. Trên thực tế nghĩa vụ này của đối tượng thanh tra thường thực hiện không được kịp thời, đầy đủ. Có rất nhiều quy định không đúng, sai trái, không phù hợp không được sửa đổi, bổ sung, thay thế kịp thời, đầy đủ nên vẫn trở thành căn nguyên phát sinh nhiều vi phạm.
Từ phân tích thực trạng ta thấy nổi lên những hạn chế sau: Thứ nhất, hoạt động thanh tra dựa trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước từ Trung ương đến địa phương nhưng do sự phân tán của nền hành chính nên các tổ chức thanh tra nhà nước ở các cấp, các ngành gần như lệ thuộc hoàn toàn vào cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp cả về tổ chức, nhân sự, kinh phí, trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, trong quá trình tiến hành thanh tra cũng như giai đoạn kết thúc, kết luận và kiến nghị xử lý. Điều này phần nào ảnh hưởng đến tính chủ động và độc lập trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra.
Thứ hai, về việc xây dựng báo cáo kết quả thanh tra và ban hành kết luận thanh tra:
Về xây dựng báo cáo kết quả thanh tra: Theo Khoản 1, Điều 49 Luật Thanh tra năm 2010: “Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra và gửi tới người ra quyết định thanh tra. Trường hợp người ra quyết định thanh tra là Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước thì báo cáo kết quả thanh tra còn phải được gửi cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp”. Một thực tế trong thời gian vừa qua, sau khi kết thúc thanh tra tại đơn vị các Đoàn thanh tra mới bắt đầu tập trung soạn thảo Báo cáo kết quả thanh tra nên thời gian viết báo cáo thường kéo dài hơn so với quy định. Nội dung báo cáo thường dàn trải, chưa nêu bật được tính chất, mức độ sai phạm và trách nhiệm của cá nhân có liên quan; các nội dung nêu trong dự thảo báo cáo chỉ dừng lại mô tả sự việc, chưa xem xét đầy đủ các sự kiện có liên quan, chứng cứ chưa chắc chắn nên khi đánh giá, kết luận rất khó và thường có ý kiến khác nhau giữa các thành viên Đoàn thanh tra; Mặc dù Đoàn thanh tra có nhiều cố gắng trong việc thẩm tra, xác minh, kết luận các nội dung thanh tra nhưng chất lượng báo cáo kết quả thanh tra còn hạn chế. Điều này hạn chế không nhỏ đến việc ban hành kết luận thanh tra.
Về ban hành kết luận thanh tra: tại Khoản 1, Điều 50 Luật Thanh tra 2010 quy định “Chậm nhất 15 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra và gửi tới Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên, đối tượng thanh tra”. Trên thực tế, các dự thảo Kết luận thanh tra sẽ do Trưởng Đoàn thanh tra xây dựng sau đó trình người ra quyết định thanh tra ký ban hành. Nhìn chung, các dự thảo Kết luận thanh tra do Trưởng Đoàn thanh tra xây dựng không khác nhiều so với Báo cáo kết quả thanh tra mà Trưởng Đoàn thanh tra lập trước đó. Những nội dung nêu trong dự thảo Kết luận thanh tra, phương pháp thể hiện còn hạn chế; có dự thảo chỉ là sự rút gọn (giảm bớt số trang) của Báo cáo kết quả thanh tra. Vì vậy, việc phân tích đánh giá, quy kết trách nhiệm nêu trong dự thảo Kết luận thanh tra chưa tương xứng với thẩm quyền của người ký Kết luận thanh tra. Đây là một trong những khó khăn khi hoàn chỉnh dự thảo kết luận trước khi ký ban hành, đồng thời cũng là những khó khăn cho người ký Kết luận thanh tra. Nhiều Kết luận thanh tra chưa có chiều sâu, chưa làm rõ nguyên nhân, chưa đánh giá chính xác tính chất của hành vi vi phạm, nhất là các hành vi liên quan đến tham nhũng; việc kiến nghị xem xét, xử lý trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong một số trường hợp vẫn chưa rõ ràng, cụ thể; việc đôn đốc, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện sau thanh tra chưa đúng mức dẫn đến tỷ lệ thu hồi kinh tế và xử lý trách nhiệm chưa cao, làm ảnh hưởng đến không nhỏ đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra.
Thứ ba, các kết luận thanh tra, mặc dù Luật quy định thuộc quyền hạn của Người ra quyết định thanh tra, nhưng trên thực tế vẫn phải chờ xin ý kiến của cấp trên vì thường liên quan đến trách nhiệm quản lý của các cán bộ chủ chốt. Mặt khác, việc thi hành chủ yếu phụ thuộc vào thủ trưởng cơ quan quản lý và ý thức chấp hành của đối tượng thanh tra. Luật Thanh tra đã đề cập đến trách nhiệm của đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện yêu cầu, kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra. Tuy nhiên, các quy định này chưa được thể hiện đầy đủ, do đó, thiếu cơ sở để thực hiện, thiếu các chế tài, nhất là khi xử lý các hành vi chống đối, cản trở, không thực hiện yêu cầu, kết luận, kiến nghị của các cơ quan thanh tra. Vì vậy, kỷ cương, kỷ luật trong quản lý hành chính bị giảm sút ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra.
Để khắc phục những hạn chế nói trên cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:
Về công tác xây dựng thể chế: Để đảm bảo thực hiện tốt trách nhiệm của đối tượng thanh tra thì cần hoàn thiện về khung pháp lý, thể chế hóa các trách nhiệm này một cách rõ ràng và cụ thể: quy định các biện pháp thực hiện, trình tự thủ tục thực hiện các biện pháp đó. Cụ thể, trách nhiệm của đối tượng thanh tra cần được cụ thế hóa trên các phương diện như sau:
- Trách nhiệm trong việc xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện kết luận thanh tra;
- Trách nhiệm thực hiện và tổ chức thực hiện kịp thời, đầy đủ các nghĩa vụ, trách nhiệm đã được xác định rõ tại kết luận thanh tra, văn bản chỉ đạo, yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra.
Bên cạnh việc quy định trách nhiệm chung của đối tượng thanh tra như trên, với vai trò là người đứng đầu thì thủ trưởng cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra có trách nhiệm lớn trong việc tổ chức thực hiện kết luận thanh tra. Do vậy, cũng cần phải quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu này trong việc thực hiện các yêu cầu trong kết luận thanh tra.
Quy định trách nhiệm của các chủ thể khác có liên quan trong việc ban hành các văn bản chỉ đạo, xử lý thực hiện kết luận thanh tra liên quan đến đối tuợng thanh tra.
Về tuyên truyền, phổ biến pháp luật: trong quản lý nhà nước về công tác thanh tra, công tác tuyên truyền luôn có vai trò quan trọng. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thanh tra nói riêng và tuyên truyền, phổ biến pháp luật về các lĩnh vực khác có liên quan nói chung sẽ góp phần nâng cao nhận thức, niềm tin và ý thức pháp luật cho các đối tượng thanh tra, hướng đối tượng thanh tra tự giác thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật.
Nâng cao chất lượng của kết luận thanh tra: Để nâng cao chất lượng của cuộc thanh tra, để đối tượng thanh tra “tâm phục, khẩu phục”, tự nguyện, tự giác trong việc thực hiện kết luận thanh tra thì việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của cán bộ làm công tác thanh tra là yêu cầu không thể thiếu.
Thực hiện tốt việc công khai kết luận, quyết định xử lý về thanh tra và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra: Góp phần giúp cho người có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và đối tượng thanh tra quan tâm và thực hiện tốt hơn trách nhiệm của mình. Mặt khác cũng tạo sức ép nhất định đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong việc tổ chức và thực hiện kết luận thanh tra; tăng cường sự giám sát của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý sau thanh tra. Tuy nhiên, việc công khai kết quả thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra cần được thực hiện đúng đối tượng, phù hợp yêu cầu và tuân thủ quy định về bảo vệ bí mật nhà nước.
Đảm bảo thực hiện các quyền tố cáo, yêu cầu bồi thường thiệt hại của đối tượng thanh tra: Luật Thanh tra quy định cá nhân là đối tượng thanh tra có quyền tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật của người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra, thành viên khác của Đoàn thanh tra theo quy định của pháp luật về tố cáo. Quyền tố cáo này có thể được thực hiện ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình thanh tra.
Kiện toàn hoạt động của cơ quan xử lý sau thanh tra, tăng cường theo dõi, đôn đốc đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra: Sau khi có kết luận thanh tra và các văn bản chỉ đạo, xử lý của cơ quan có thẩm quyền thì việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra đối tượng thanh tra là một trong những yêu cầu không thể thiếu để đảm bảo đối tượng thanh tra thực hiện tốt trách nhiệm của mình theo kết luận thanh tra.
Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của đối tượng thanh tra: Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện các kết luận thanh tra kém hiệu quả, các đối tượng thanh tra không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ, trách nhiệm theo kết luận thanh tra và các văn bản chỉ đạo, xử lý của cơ quan có thẩm quyền đó là pháp luật chưa quy định cụ thể các chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ tới kỷ luật, kỷ cương trong quản lý nhà nước, làm cho mục đích của hoạt động thanh tra không đảm bảo. Do vậy, cần nghiên cứu cụ thể hóa các hình thức xử lý hành vi của đối tượng thanh tra khi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra và các hành vi vi phạm khác trong quá trình thực hiện kết luận thanh tra. Việc quy định các biện pháp xử lý phải tính đến yếu tố phù hợp với nhóm đối tượng: đối tượng thanh tra là cán bộ, công chức, viên chức và đối tượng thanh tra không phải là cán bộ, công chức, viên chức bởi cơ chế quản lý và hình thức xử lý đối với những nhóm đối tượng này là khác nhau./.
ThS. Nguyễn Đình Bính Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính Phủ