Kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp luôn được xác định là một trong những nội dung quan trọng của kiểm soát quyền lực nhà nước. Bởi lẽ, hành pháp nắm giữ, quản lý các nguồn lực quốc gia, chịu trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống. Hoạt động của hành pháp có ảnh hưởng rất lớn tới xã hội, tác động trực tiếp tới quyền và nghĩa vụ của công dân, cơ quan, tổ chức.
Kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp luôn được xác định là một trong những nội dung quan trọng của kiểm soát quyền lực nhà nước. Bởi lẽ, hành pháp nắm giữ, quản lý các nguồn lực quốc gia, chịu trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống. Hoạt động của hành pháp có ảnh hưởng rất lớn tới xã hội, tác động trực tiếp tới quyền và nghĩa vụ của công dân, cơ quan, tổ chức.
Theo đó, kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp đã, đang và sẽ phải được đặc biệt quan tâm nhằm đảm bảo cho quyền lực nhà nước không bị lạm dụng, lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức không bị xâm hại. Trong các chủ thể tham gia kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp, thanh tra là một trong các phương thức kiểm soát quyền lực quan trọng đối với quản lý hành chính nhà nước. Trong phạm vi nhất định, bài viết này tập trung đi vào nghiên cứu trả lời bốn câu hỏi sau đây:
1. Quyền hành pháp là gì và tại sao cần kiểm soát?
Khái niệm về quyền hành pháp hiện nay vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau. Dù diễn đạt dưới nhiều hình thức nào đi chăng nữa thì cơ bản quyền hành pháp bao gồm quyền lập quy và quyền hành chính do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện thông qua hoạt động chấp hành, điều hành trong mối quan hệ giữa các chủ thể được giao thẩm quyền quản lý và đối tượng chịu sự quản lý. Quyền hành pháp được thể hiện trên nhiều phương diện: Tổ chức thực thi các quy định của Hiến pháp và các luật bằng việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và luật; xây dựng và duy trì hoạt động thường xuyên bộ máy công quyền từ trung ương xuống địa phương; tổ chức và quản lý các dịch vụ công, quản trị các tài sản thuộc sở hữu nhà nước, quản lý hành chính việc tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước; tổ chức kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước…
Quyền hành pháp là quyền rất quan trọng, tổ chức thực hiện quyền này là khâu quan trọng nhất trong việc thực hiện quyền lực nhà nước vì hành pháp quản lý các nguồn lực quốc gia, nguồn ngân sách, quản lý tài nguyên thiên nhiên; quản lý đội ngũ cán bộ, công chức thực thi quyền hành pháp; cung cấp dịch vụ hành chính công… - hoạt động của nó tác động trực tiếp đến công dân, cơ quan, tổ chức trong xã hội. Các chủ thể được trao quyền hành pháp bao gồm hệ thống cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương. Trong thực hiện thẩm quyền được giao, các chủ thể đó có thể xâm phạm đến quyền và lợi ích của công dân, cơ quan, tổ chức thông qua nhiều hình thức khác nhau và nhu cầu kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp là khách quan và cần thiết trong nền quản trị dân chủ.
2. Vị trí, vai trò của cơ quan thanh tra được xác định như thế nào trong kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp?
Kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp là hoạt động kiểm tra, xem xét và xử lý của chủ thể có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng bị kiểm soát trong việc thực thi công vụ. Thực hiện kiểm soát quyền hành pháp có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau; không chỉ từ cơ chế giám sát bên ngoài (cơ quan Đảng, cơ quan quyền lực, cơ quan tư pháp và xã hội) mà còn có cơ chế giám sát từ bên trong của bản thân hệ thống hành chính (do chính các cơ quan, tổ chức trong hệ thống hành chính nhà nước theo dõi, xem xét, đánh giá việc thực thi công vụ của của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nền hành chính, xử lý vi phạm theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý).
Trong cơ chế kiểm soát bên trong đó, cơ quan thanh tra đóng vai trò quan trọng. Thanh tra có vai trò kiểm soát việc thực hiện quyền lực trong bộ máy hành pháp và đối tượng của nó là các cơ quan, tổ chức, cá nhân được trao thực hiện quyền hành pháp. Quyền hành pháp và quyền thanh tra thống nhất về tổ chức nhưng khác biệt về thẩm quyền. Quyền hành pháp bảo đảm quyền của cá nhân, công dân, tổ chức, nhưng nếu quyền này không được đảm bảo thì thanh tra có quyền đánh giá, kiểm soát. Cơ quan hành pháp ra quyết định, còn cơ quan thanh tra có vai trò đánh giá tính hợp pháp, hợp lý của quyết định hành chính, hành vi hành chính. Cơ quan hành pháp có quyền cưỡng chế hành chính khi có hành vi vi phạm pháp luật thì cần có cơ quan thanh tra xem xét, đánh giá và kiến nghị xử lý hành vi vi phạm đó. Cơ quan hành pháp quản lý phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, nhưng để quản lý có hiệu quả thì cần phải có hoạt động thanh tra, kiểm tra…
Lịch sử, tổ chức và hoạt động thanh tra đã có sự biến đổi với nhiều tên gọi khác nhau nhưng luôn được xác định là cơ quan thuộc hệ thống thực hiện quyền hành pháp. Nội dung các văn bản được ban hành mỗi giai đoạn cũng đã cụ thể hóa quyền hạn của các tổ chức thanh tra, tập trung chủ yếu vào chức năng giám sát hành chính. Có thể thấy rằng, ngay từ ngày thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện quan điểm giao cho thanh tra chức năng giám sát hành chính với đối tượng gồm cả “người” và “việc” của các cơ quan hành chính. Ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt, thù trong giặc ngoài và chính quyền cách mạng non trẻ nên Ban thanh tra khi đó cũng có những nhiệm vụ, quyền hạn “đặc biệt”. Mặc dù vậy, mục đích, tính chất, hoạt động thanh tra khi đó vẫn là để nhằm giám sát việc thực hiện quyền lực, bảo đảm chính quyền thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Theo quá trình lịch sử, ngành Thanh tra đã không ngừng lớn mạnh và thanh tra thực sự là công cụ không thể thiếu của quản lý nhà nước. Xét về mục đích và tính chất hoạt động thanh tra thì ít có sự thay đổi. Sự thay đổi chủ yếu liên quan đến tổ chức và phương thức hoạt động cho thích ứng với sự thay đổi về tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và phương thức quản lý từng thời kỳ. Vì được xác định như là một công cụ của quản lý nên tổ chức và hoạt động thanh tra về cơ bản qua các thời kỳ đều phụ thuộc và gắn bó chặt chẽ với các cơ quan hành chính nhà nước. Ngành Thanh tra vẫn luôn được xác định với những nhiệm vụ chủ yếu là thanh tra kiểm tra, bảo đảm việc thực hiện pháp luật của các cơ quan, tổ chức; tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân và phòng chống vi phạm trong hoạt động công vụ. Cụ thể hơn, vai trò của cơ quan thanh tra trong kiểm soát quyền hành pháp thể hiện rõ trên những phương diện sau:
- Kịp thời phát hiện những sơ hở, yếu kém, vi phạm trong việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, từ đó có đề nghị hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền (trong đó có cơ quan chịu sự giám sát) xử lý, khắc phục kịp thời.
- Tăng cường trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện công vụ, giảm thiểu các vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường kỷ cương, kỷ luật quản lý nhà nước.
- Cùng với cơ quan giám sát khác như giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, giám sát của Đảng… phát hiện và kiến nghị hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý sai phạm, khắc phục sở hở, yếu kém.
- Cung cấp các thông tin quan trọng, cần thiết về những vi phạm, yếu kém trong thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước để các cơ chế giám sát khác của nhà nước, của xã hội, của Đảng thực hiện việc giám sát hiệu quả, thiết thực.
3. Cơ quan thanh tra đã thực hiện kiểm soát quyền hành pháp như thế nào thời gian qua?
Nội dung và phương thức kiểm soát được thực hiện trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao cho cơ quan thanh tra, đó là thông qua hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Thông qua hoạt động của mình, cơ quan thanh tra sẽ xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hoạt động thanh tra là hoạt động thực thi quyền hành chính. Kết quả hoạt động thanh tra là kết quả của việc giám sát, kiểm tra và xử lý hành chính đối với các đối tượng chịu sự quản lý nhà nước. Qua đó, cơ quan thanh tra phải chỉ ra được những việc làm được cũng như những tồn tại, yếu kém, sai phạm của đối tượng quản lý trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn, chủ trương, chính sách quản lý nhà nước.
Thời gian qua, hoạt động của cơ quan thanh tra đã có những chuyển biến tích cực góp phần kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp. Việc triển khai các cuộc thanh tra được tiến hành chủ động, kịp thời, tập trung thực hiện nhiều cuộc thanh tra lớn ở các lĩnh vực quan trọng, phức tạp như: công tác quản lý vốn và tài sản của doanh nghiệp; quản lý sử dụng đất đai, quản lý đầu tư xây dựng, công tác tín dụng, ngân hàng; dự trữ nhà nước, công tác quản lý thu và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các vấn đề mang tính xã hội bức xúc. Nội dung thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, đã chuyển sang thanh tra trách nhiệm trong việc chấp hành chính sách pháp luật, thực thi trách nhiệm quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước. Trong quá trình triển khai công tác thanh tra đảm bảo linh hoạt, gắn thanh tra theo chương trình, kế hoạch với thanh tra đột xuất theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ hoặc Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước giao. Qua thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, Thanh tra Chính phủ đã theo dõi, xem xét, đánh giá và phát hiện nhiều khuyết điểm, vi phạm, kiến nghị xử lý về kinh tế và hành chính, đồng thời phát hiện những bất cập về cơ chế, chính sách để kiến nghị hoàn thiện thể chế trên nhiều lĩnh vực như đất đai, khoáng sản, dự án đầu tư xây dựng, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, quản lý tài chính ngân sách, ngân hàng, hải quan, thuế, bảo hiểm xã hội, thực hiện các chính sách xã hội, giáo dục, y tế, trật tự xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vai trò của cơ quan thanh tra trong soát việc thực hiện quyền hành pháp vẫn còn có một số tồn tại, hạn chế sau:
Thứ nhất, việc xác định mục tiêu, nội dung, đối tượng thanh tra để kiểm soát nhiều khi chưa sát với nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ, ngành, địa phương. Điều này cũng đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động thanh tra trong việc hỗ trợ, phục vụ cho công tác quản lý nhà nước. Nội dung chương trình, kế hoạch thanh tra của toàn Ngành nhìn chung còn chưa linh hoạt. Định hướng chương trình thanh tra mới chỉ đưa ra các định hướng nhiệm vụ cho Thanh tra Chính phủ, còn thanh tra một số bộ ngành chưa được định hướng nội dung cụ thể. Các định hướng thanh tra theo chuyên đề chưa được đề cập rõ nét. Khi xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra chưa tính đến việc dự trữ nguồn lực để thực hiện các công việc đột xuất dẫn đến tình trạng có một số việc đã đưa vào chương trình, kế hoạch mà không thực hiện được. Có năm, công tác thanh tra kinh tế xã hội, giải quyết khiếu nại, tố cáo thực hiện chủ yếu dựa trên sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; nhiều cuộc thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật đã đưa vào chương trình kế hoạch nhưng không thực hiện được.
Thứ hai, hoạt động xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước, của cán bộ, công chức chưa đảm bảo tính kịp thời, thường xuyên. Hoạt động thanh tra hành chính chủ yếu được thực hiện theo chương trình, kế hoạch là chủ yếu, khó đảm bảo tính thường xuyên, liên tục và vì tính chất hoạt động là “hậu kiểm” nên sự bám sát, theo sát hoạt động thực thi công vụ cũng rất khó để đảm bảo. Phương thức, trình tự thực hiện thanh tra hành chính như vậy được duy trì ổn định, lâu dài nên thiếu tính linh hoạt; trong khi hoạt động thực thi quyền lực công diễn ra hàng ngày, hàng giờ nếu có những sai sót, vi phạm hay hành vi lạm quyền, lợi dụng quyền lực thì khó có thể đảm bảo tính kịp thời trong phát hiện và xử lý thông qua hoạt động thanh tra theo Đoàn và theo chương trình, kế hoạch như hiện nay.
Thứ ba, kiến nghị về hoàn thiện chính sách pháp luật, hoàn thiện cơ chế thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước trong Kết luận thanh tra chưa nổi bật. Thực tế trong những năm qua, Kết luận thanh tra nói chung thậm chí là trong cả Báo cáo tổng kết công tác thường kỳ của cơ quan thanh tra cũng thường chú ý đến những nội dung như phát hiện vi phạm về kinh tế, kiến nghị thu hồi về ngân sách, xử lý hành vi vi phạm…. kèm theo đó là những số liệu rất cụ thể. Nội dung chấn chỉnh hoạt động quản lý, kiến nghị hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật đôi khi còn chung chung, chưa chỉ rõ nội dung chấn chỉnh là gì, nội dung kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật là văn bản pháp luật nào? Điều, khoản hoặc ít nhất là nội dung quy định pháp luật gì?... ít được đề cập đến. Nói cách khác, ở khía cạnh này, việc thực hiện quyền hạn kiểm soát của cơ quan thanh tra chưa được toàn diện và bao quát, chưa chú trọng đến hoàn thiện cơ sở pháp lý, yếu tố nền tảng của hoạt động thực thi công vụ.
Thứ tư, công tác giám sát việc tổ chức kê khai tài sản, thu nhập; theo dõi biến động và xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính nhà nước còn hình thức. Trong các báo cáo, kết quả các bộ, ngành địa phương đã kê khai đúng, đủ và kịp thời rất cao (trên 99%) nhưng điều quan trọng là sự trung thực trong việc kê khai thì hầu như không kiểm soát được. Việc xác minh tài sản, thu nhập nhằm làm rõ tính trung thực của việc kê khai trước khi Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 có hiệu lực ít được quan tâm thực hiện hoặc thực hiện không triệt để, hình thức nên số người vi phạm bị phát hiện còn ít, việc xử lý vi phạm còn chậm và chưa được công khai kịp thời. Trường hợp kê khai thiếu trung thực bị xử lý chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với số lượng bản kê khai tài sản; có ngành, địa phương không có trường hợp nào phải xác minh và xử lý về kê khai tài sản, thu nhập không trung thực. Nhiều vụ việc chỉ đến lúc cơ quan điều tra vào cuộc, khi có dấu hiệu phạm tội, nhiều khối tài sản bất minh của bị can, bị cáo nguyên là cán bộ, công chức mới bị phát hiện.
Thứ năm, công tác tự kiểm tra, phát hiện tham nhũng trong nội bộ các cơ quan hành chính còn chưa cao. Việc kiểm tra, kịp thời phát hiện hành vi tham nhũng để xử lý hoặc chuyển cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật; khắc phục tình trạng nể nang, xử lý không nghiêm các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng chưa được người đứng đầu các cơ quan hành chính chủ động thực hiện thường xuyên. Thực tế, phần lớn các vụ việc tham nhũng, tiêu cực, sai phạm bị phát hiện và xử lý trong thời gian qua đều do người dân tố giác hoặc do thanh tra, kiểm tra phát hiện được. Trong khi đó có rất ít cơ quan, đơn vị tự phát hiện trường hợp vi phạm. Đặt trong mối tương quan so sánh, con số kết quả phát hiện và xử lý tham nhũng nói chung với kết quả tự kiểm tra, giám sát phát hiện tham nhũng trong nội bộ khá khập khiễng.
4. Cần phải làm gì để nâng cao vai trò của cơ quan thanh tra trong kiểm soát quyền hành pháp?
Thứ nhất, tiếp tục xác định rõ địa vị pháp lý của các cơ quan thanh tra trong bộ máy hành chính nhà nước để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quản lý nhà nước nói chung, đặc biệt là kiểm soát quyền hành pháp. Địa vị pháp lý của các cơ quan thanh tra cần bảo đảm được tính độc lập trong hoạt động và có thẩm quyền đủ mạnh để không chỉ thực hiện nhiệm vụ xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật nói chung mà còn có xử lý kịp thời đối với hành vi vi phạm pháp luật. Chiến lược phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định mục tiêu và nhiệm vụ trong giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030 là: Cơ quan thanh tra nhà nước ở Trung ương là cơ quan của Chính phủ, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Cơ quan thanh tra cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo trực tiếp về công tác, tổ chức, nghiệp vụ của thanh tra cấp trên…. Xây dựng các cơ quan thanh tra tập trung, thống nhất theo cấp hành chính gồm 2 cấp, cấp Trung ương và cấp tỉnh". Tinh thần này cần được thể hiện bằng các quy định cụ thể trong Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Khi thiết lập hệ thống cơ quan thanh tra tập trung, thống nhất, các cơ quan thanh tra sẽ tập trung quản lý nhà nước về công tác thanh tra. Còn quản lý nhà nước về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng thì thực hiện theo mô hình quản lý phân tán, trong đó phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức. Cơ quan thanh tra chỉ nên tập trung thực hiện một số nội dung gắn liền với chức năng thanh tra như tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thực hiện pháp luật; kiểm soát việc thực thi công vụ, tài sản thu nhập của công chức; theo dõi, rà soát, đôn đốc việc thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính….
Các cơ quan thanh tra cần tập trung giám sát, đánh giá hành chính như tinh thần của Chiến lược phát triển ngành Thanh tra là: "Các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính chuyển sang thực hiện chức năng đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, của đội ngũ cán bộ, công chức; đề xuất, hoàn thiện về cơ chế, chính sách, hướng dẫn nghiệp vụ và kiểm tra việc thực hiện pháp luật trên các lĩnh vực tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo".
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra và các quy định pháp luật khác nhằm bảo đảm pháp lý đối với việc kiểm soát quyền hành pháp của cơ quan thanh tra.
Một là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan thanh tra. Sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra theo hướng kiện toàn về tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra; quyền và nghĩa vụ của các cơ quan thanh tra theo hướng có tính độc lập hơn để tránh việc cơ quan thanh tra phụ thuộc quá nhiều vào thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp. Về vị trí của các cơ quan thanh tra, trong điều kiện hiện nay, cơ quan thanh tra vẫn thuộc cơ quan hành pháp. Tuy nhiên, không nên coi cơ quan thanh tra thuần tuý như cơ quan chuyên môn khác của Chính phủ hoặc của Uỷ ban nhân dân vì mặc dù nằm trong cơ quan hành pháp và là một bộ phận của cơ quan hành pháp nhưng cơ quan thanh tra có chức năng, nhiệm vụ đặc biệt hơn, đây là cơ quan có tính chất giám sát hành chính, cơ quan phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật, phát hiện sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền có biện pháp khắc phục, qua đó góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước. Chính vì tính chất đặc biệt này, cơ quan thanh tra cần được đảm bảo tính chủ động và tính độc lập tương đối hơn để kiểm soát khách quan hơn.
Hai là, nghiên cứu, làm rõ các luận cứ khoa học quy định chức năng giám sát hành chính cho cơ quan thanh tra. Việc thay đổi chức năng nhiệm vụ của cơ quan thanh tra tất yếu dẫn đến việc phải điều chỉnh các nhiệm vụ hiện nay cho phù hợp. Công tác giải quyết khiếu nại hành chính sẽ chuyển mạnh sang giải quyết tại tòa án bằng con đường tố tụng nếu như khiếu nại hành chính do chính cơ quan ban hành quyết định bị khiếu nại không giải quyết hoặc người khiếu nại không đồng ý. Cơ quan thanh tra sẽ chỉ giữ vai trò kiểm tra đôn đốc việc thực hiện trách nhiệm này của cơ quan hành chính với tư cách một cơ quan giám sát mà thôi, đồng thời giữ vai trò trung gian hòa giải trong giải quyết khiếu nại hành chính. Phương thức hoạt động của cơ quan thanh tra cũng sẽ cần có sự thay đổi căn bản. Các cuộc thanh tra, kiểm tra chỉ được tiến hành khi cần thiết. Hoạt động giám sát hành chính sẽ được thực hiện thường xuyên, liên tục. Các cơ quan thanh tra có quyền yêu cầu cơ quan hành chính nhà nước cung cấp các thông tin, báo cáo giải trình khi cần thiết liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để phục vụ cho việc giám sát; có quyền chất vấn, yêu cầu trả lời về những vấn đề chưa rõ. Vấn đề rất quan trọng để thực hiện được chức năng giám sát là phải xây dựng được bộ công cụ giám sát, đánh giá, đặc biệt là các tiêu chí để có thể đánh giá hiệu được hiệu quả quản lý của đối tượng được giám sát. Các phương pháp và công cụ đánh giá cần được xây dựng trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài về hiệu quả quản trị công và thực hiện trách nhiệm giải trình của nền công vụ.
Ba là, quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước các cấp trong công tác thanh tra để bảo đảm vai trò của cơ quan thanh tra trong kiểm soát quyền hành pháp. Nghiên cứu hoàn thiện pháp luật theo hướng phân định rõ trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan hành chính với Chánh Thanh tra trong công tác thanh tra trên những điểm sau: Quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tuyên tuyền pháp luật về thanh tra, đôn đốc, thanh tra, kiểm tra; Việc tổ chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra; Việc phê duyệt kế hoạch thanh tra; Xử lý và chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra; Xử lý hành vi không thực hiện yêu cầu, kết luận, quyết định xử lý về thanh tra; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra trong trường hợp chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện trực tiếp ra quyết định thanh tra; Việc ra quyết định thanh tra; Việc công khai kết luận thanh tra; Xử lý hành vi vi phạm pháp luật của người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên, người được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra, thành viên khác của Đoàn thanh tra...
Bốn là, nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về thanh tra, kiểm tra, xử lý trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, cán bộ, công chức trong lĩnh vực tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Lĩnh vực tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến việc thực thi công vụ của cơ quan quản lý và cán bộ, công chức. Đây đồng thời là lĩnh vực thuộc quản lý nhà nước của ngành Thanh tra. Hàng năm, rất nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thực hiện pháp luật trong những lĩnh vực này đã được cơ quan thanh tra nhà nước thực hiện. Tăng cường hoạt động thanh tra hành chính trong những lĩnh vực này sẽ góp phần quan trọng vào việc xem xét, đánh giá và xử lý các vi phạm trong thực thi công vụ của cơ quan quản lý và cán bộ, công chức. Theo đó: (i) sửa đổi các quy định pháp luật còn bất cập và thiếu tính khả thi về thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan hành chính các cấp trong công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng để bảo đảm việc xác định trách nhiệm của chủ thể này trong giải quyết khiếu nại, tố cáo phù hợp với điều kiện khách quan; (ii) sớm ban hành quy định chi tiết hướng dẫn xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các quy định hướng dẫn cần xác định rõ các loại hình trách nhiệm (bao gồm cả trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm bồi thường), mức độ chịu trách nhiệm của người có thẩm quyền trong tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với từng hình thức vi phạm cụ thể. Việc phân loại các hình thức trách nhiệm cần căn cứ vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm; (iii) phân định rõ trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Cần quy định rõ theo hướng liệt kê trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Đây vừa là căn cứ pháp lý để tổ chức thực hiện nhưng đồng thời là cơ sở để xác định trách nhiệm của cơ quan quản lý và cán bộ, công chức trong phòng, chống tham nhũng.
Thứ ba, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện kiểm soát quyền hành pháp của cơ quan thanh tra cần tập trung vào những vấn đề sau:
Một là, tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, thông qua việc nắm thông tin về tình hình thực hiện nhiệm vụ, công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, từ đó phát hiện sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, bất cập trong chính sách, pháp luật để kiến nghị hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền sửa chữa, khắc phục kịp thời.
Hai là, đẩy mạnh và đổi mới hoạt động thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng đối với các cơ quan hành chính nhà nước, từ việc xây dựng kế hoạch đến việc tổ chức thực hiện bảo đảm toàn diện, đầy đủ các nội dung, tiến hành quy mô, chặt chẽ, tránh đại khái, sơ sài, hình thức. Trong báo cáo, kết luận thanh tra trách nhiệm phải chỉ rõ các sai phạm; trách nhiệm cụ thể của cá nhân, cơ quan, tổ chức; kiến nghị hoặc yêu cầu cụ thể về nội dung và thời gian thực hiện, bảo đảm tính khả thi; tăng cường theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận thanh tra. Trường hợp phát hiện việc không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời thì báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
Ba là, trong hoạt động thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, ngoài việc làm rõ các vi phạm thuộc nội dung thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, vụ việc tham nhũng cần chú trọng việc phát hiện nguyên nhân dẫn đến các vi phạm pháp luật do thiếu tinh thần trách nhiệm, không thực hiện, thực hiện không đầy đủ trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước; những bất cập, yếu kém trong công tác quản lý; những lỗ hổng về cơ chế chính sách, pháp luật dẫn đến nhiều sai phạm trên quy mô rộng để xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kịp thời, hiệu quả. Đối với những bất cập, yếu kém trong công tác quản lý cần có kiến nghị hoặc yêu cầu cụ thể đối tượng tượng thanh tra nhất là các cơ quan hành chính nhà nước phải có giải pháp thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Các cơ quan thanh tra nhà nước cần giảm thiểu các cuộc thanh tra trực tiếp mà tăng cường thanh tra trách nhiệm nhiều hơn.
Bốn là, chú trọng việc phát hiện và kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý; kiến nghị đình chỉ hoặc hủy bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra.
Năm là, tập trung phát hiện và kiến nghị thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước xem xét trách nhiệm, xử lý người thuộc quyền quản lý của thủ trưởng có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra hoặc không thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra; yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức xem xét trách nhiệm, xử lý người thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra hoặc không thực hiện kết luận, quyết định xử lý.
Sáu là, nâng cao năng lực trình độ cho công chức, thanh tra viên để đáp ứng yêu cầu công tác thanh tra; đổi mới việc xây dựng kế hoạch thanh tra theo hướng tập trung vào những vấn đề lớn, phức tạp; đổi mới việc tiến hành thanh tra theo hướng nhanh, gọn; kết luận thanh tra phải bảo đảm tính có căn cứ pháp lý, thực tiễn, khả thi; tăng cường, đổi mới việc thẩm định dự thảo kết quả thanh tra./.
1. Báo cáo tổng kết công tác ngành của Thanh tra Chính phủ các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019, 2020
2. Báo cáo số 330/BC-CP ngày 22/9/2016 của Chính phủ tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN
TS. Tạ Thu Thủy Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra