Có thể nói, kiểm soát quyền lực Nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình tổ chức thực thi quyền lực Nhà nước. Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng quyền lực Nhà nước phải được kiểm soát, bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào khi được giao sử dụng quyền lực nhà nước đều phải chịu sự kiểm soát để không xảy ra các tệ nạn độc quyền, cửa quyền, đặc quyền, lạm quyền... làm tha hoá bản chất và mục đích ban đầu của quyền lực Nhà nước.
Có thể nói, kiểm soát quyền lực Nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình tổ chức thực thi quyền lực Nhà nước. Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng quyền lực Nhà nước phải được kiểm soát, bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào khi được giao sử dụng quyền lực nhà nước đều phải chịu sự kiểm soát để không xảy ra các tệ nạn độc quyền, cửa quyền, đặc quyền, lạm quyền... làm tha hoá bản chất và mục đích ban đầu của quyền lực Nhà nước.
Vấn đề kiểm soát quyền lực Nhà nước được đặt ra ở tất cả các quốc gia, không phân biệt đó là quốc gia phát triển, đang phát triển hay kém phát triển. Ở Việt Nam, vấn đề kiểm soát quyền lực là một trong những nội dung quan trọng được đề cập tới trong các văn kiện Đại hội của Đảng, Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quy định trong các bản Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác, tạo cơ sở chính trị và cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm soát quyền lực Nhà nước ở Việt Nam.
Về cơ sở chính trị, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân... Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; “Nhà nước phục vụ Nhân dân, gắn bó mật thiết với Nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của Nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân”;
Ảnh minh họa
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ nhấn mạnh “các cấp uỷ, tổ chức Đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, theo hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm”.
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ nêu rõ quan điểm: “Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm…”, về mục tiêu cụ thể đến năm 2020 được Nghị quyết xác định, đó là: “Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; kiên quyết xóa bỏ tệ chạy chức, chạy quyền; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên”. Một trong những nhiệm vụ, giải pháp được Nghị quyết chỉ rõ, đó là: “Thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ theo hướng: Đồng bộ, liên thông, nhất quán trong hệ thống chính trị và phù hợp với thực tế; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; ràng buộc trách nhiệm và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; siết chặt kỷ luật, kỷ cương; tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo; bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”.
Về cơ sở pháp lý, lần đầu tiên vấn đề kiểm soát quyền lực Nhà nước được quy định một cách chính thức trong Hiến pháp năm 2013 - văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản quy pháp luật của Việt Nam. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, các đạo luật liên quan đến kiểm soát quyền lực Nhà nước không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, hình thành và thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực phù hợp với vị trí, tính chất của từng thiết chế quyền lực như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Tiếp công dân...
Có thể nói hoạt động kiểm soát quyền lực Nhà nước ở Việt Nam được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, chỉ đạo sát sao và rất quyết liệt. Qua đó, đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận: “Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực”(1); “công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được chỉ đạo tập trung, quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, có nhiều đổi mới, có hiệu lực, hiệu quả, nhất là ở cấp Trung ương; hoạt động của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp được tăng cường, ngày càng siết chặt kỷ luật, kỷ cương”(2).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, cũng còn một số hạn chế, khuyết điểm: “Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của Nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ”(3) .
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh vị trí, vai trò, tầm quan trọng và những quan điểm, định hướng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm soát quyền lực Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới. Cụ thể: Một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 được nêu trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đó là:“Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và vì sự phát triển đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”;(4); “chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và công tác dân vận của Đảng”(5); đồng thời khẳng định các đột phá chiến lược đó là: “Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật” (6) .
Như vậy, để hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực Nhà nước theo tinh thần Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy Nhà nước:
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp.
Cần tiếp tục sắp xếp tinh gọn lại hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước theo hướng thu gọn đầu mối, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng nền hành chính Nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch. Bảo đảm tính độc lập, có đủ thực quyền của hệ thống cơ quan thanh tra Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động kiểm soát quyền lực trong nội bộ hệ thống hành pháp.
Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp.
Thứ hai, tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng:
Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức Đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc nổi cộm, dư luận quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh các tổ chức Đảng, đảng viên vi phạm. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn ngay từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng. Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát của tổ chức Đảng cấp trên đối với cấp dưới.
Kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với giám sát, thanh tra, kiểm toán Nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tăng cường phối hợp giữa giám sát, kiểm tra của Đảng với giám sát, thanh tra của Nhà nước và giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực, không hiệu quả. Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, gắn với kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền. Chú trọng đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy uỷ ban kiểm tra các cấp; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp theo hướng chuyên nghiệp hoá.
Thứ ba, hoàn thiện cơ chế pháp lý Nhân dân kiểm soát quyền lực Nhà nước:
Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể Nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng trong quá trình hoạch định chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trong việc phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Hoạt động kiểm soát quyền lực Nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội cần được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, tránh tổ chức tràn lan, dàn trải nhằm nâng cao hiệu quả trong điều kiện năng lực kiểm soát còn nhiều hạn chế. Trước mắt, cần lựa chọn và chú trọng tập trung triển khai các hình thức kiểm soát quyền lực phù hợp với năng lực thực tế của các tổ chức chính trị - xã hội như: Tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND; tổ chức các hoạt động lấy ý kiến đóng góp của Nhân dân đối với các dự án luật; phản ánh ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân, tổ chức việc tiếp công dân, tham gia công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc xá; giám sát và phản biện xã hội ở một số nội dung, lĩnh vực phù hợp với điều kiện, năng lực của các tổ chức chính trị - xã hội.
Các tổ chức chính trị - xã hội cần xây dựng kế hoạch, chương trình phối hợp kiểm soát với các cơ quan báo chí truyền thông. Các cơ quan này với ưu thế về mặt cung cấp, truyền tải thông tin rộng rãi, kịp thời đến với các tầng lớp nhân dân sẽ góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, hiệu lực kiểm soát quyền lực Nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội. Các tổ chức chính trị - xã hội có thể thông qua các phương tiện báo chí, truyền thông công bố kết quả kiểm soát quyền lực Nhà nước; chuyển tải các đề xuất, kiến nghị đến các cơ quan quyền lực Nhà nước; đồng thời tạo dựng sức ép từ dư luận xã hội để buộc các cơ quan được kiểm soát nhanh chóng có ý kiến phản hồi, tiếp thu hoặc thu hút sự chú ý để các cơ quan chức năng sớm có động thái điều tra, xử lý các sai phạm. Với việc mở rộng sự tham gia của người dân, các tổ chức chính trị - xã hội sẽ tiết kiệm được chi phí cho hoạt động kiểm soát, đa dạng hóa các nguồn thông tin từ “tai, mắt” của các tầng lớp nhân dân, tạo áp lực dư luận xã hội để nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động kiểm soát quyền lực Nhà nước.
TS. Vũ Việt Hà
Khoa Luật, Học viện Chính trị CAND
Chú thích:
(1); (2); (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia 2021, tr.72; tr.75; tr.89;
(4); (5); (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia 2021 tr.118; 119; 203.
Tài liệu tham khảo:
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, tập 2 Nxb Chính trị quốc gia, năm 2021;
2. Hiến pháp năm 2013;
3. Điểm mới trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị - Sự thật, năm 2021.